Tái hiện cuộc nhảy dù của lính dù Mỹ trong ngày D-Day tại Normandy, 80 năm sau.
Huấn luyện nhảy dù: Di sản bất diệt từ D-Day
Hơn 70 năm trôi qua, huấn luyện nhảy dù của binh sĩ Mỹ vẫn giữ nguyên những kỹ thuật cơ bản giống như thế hệ lính dù trước đó, những người đã liều mình nhảy xuống Normandy trong Thế chiến II. “Parachute landing fall” (tạm dịch: cách hạ cánh bằng dù) vẫn là kỹ thuật quan trọng nhất, giúp binh sĩ hấp thụ lực tác động khi tiếp đất mà không bị gãy chân. Kỹ thuật thoát khỏi dù khi bị kéo lê trên mặt đất sau hạ cánh cũng được duy trì, bởi đây là một kỹ thuật sống còn. Trong quá trình huấn luyện, chúng tôi được trang bị đầy đủ kiến thức về các tình huống nguy hiểm tiềm ẩn, từ dù bị rách, dây dù bị rối, va chạm với người nhảy cùng, hạ cánh xuống nước, hạ cánh gần cột điện, cho đến trường hợp cuối cùng: kéo dù dự phòng. Mỗi tình huống đều có thể gây tử vong, và những nguy hiểm này cũng đã hiện hữu đối với những người lính dù cách đây 80 năm, nhưng với thêm một thử thách nữa: hỏa lực từ quân địch. Khi thực hành, tôi không thể tưởng tượng được cảm giác của những người lính trẻ khi phải đối mặt với chiến tranh, khi họ phải nhớ hết những kỹ thuật này và đối đầu với hỏa lực của quân địch ngay khi vừa đặt chân lên bãi biển.
Chuyến nhảy đầu tiên: Nỗi sợ và sự phấn khích
Lần đầu tiên nhảy dù, tôi đã rất hồi hộp. Máy bay Cessna cất cánh, chật kín những người nhảy dù. Không còn thời gian cho những suy nghĩ lung tung nữa. Chúng tôi bay lên độ cao 600 mét và đó là lúc bắt đầu. Không thể quay đầu lại. Tôi lao mình xuống. 5 giây rơi tự do đầy kinh hoàng, rồi tôi thở phào nhẹ nhõm khi thấy dù đã bung ra. Đó là một cảm giác tuyệt vời. Nhảy ra khỏi máy bay thật đáng sợ, nhưng sau đó, mọi thứ lại trở nên yên bình. Có một vài lỗi tôi mắc phải, nhưng phần lớn tôi đã làm đúng. Như một huấn luyện viên nói, bạn có thể mắc lỗi, miễn là không phải lỗi chết người.
Học hỏi từ những sai lầm
Lần nhảy thứ hai không suôn sẻ lắm. Khi cố gắng hạ cánh, tôi lao thẳng vào một con mương và một hàng rào. Tôi xoay người theo hướng gió. Một quyết định sai lầm. Tôi may mắn vượt qua chướng ngại vật, nhưng hạ cánh rất mạnh. Lần nhảy thứ ba còn tệ hơn, tôi bay ra khỏi khu vực hạ cánh hoàn toàn. Bây giờ tôi bắt đầu hiểu tại sao nhiều lính dù lại bị phân tán khắp Normandy đêm đó. Họ cố gắng hạ cánh chính xác trong bóng tối, dưới hỏa lực của quân địch, và thời tiết cũng không thuận lợi. Lần nhảy thứ tư, tôi điều chỉnh quá mức, hạ cánh ngắn hơn khu vực hạ cánh và suýt nữa thì đâm vào đường băng. Cuối cùng, đó là lần nhảy thứ năm. Tôi cần phải hoàn thành tốt lần này để có thể được cấp bằng. Dù bung ra mạnh mẽ và tôi bị đập vào đầu, nhưng tôi đã hạ cánh thành công, trong khu vực hạ cánh. Tôi đã giành được bằng lái, đủ điều kiện để nhảy dù độc lập — và để thực hiện cú nhảy xuống Normandy.
Tái hiện lịch sử: Nhảy dù trên máy bay C-47 Dakota
Lần này, tôi sẽ không nhảy từ máy bay Cessna hiện đại. Khi tôi mặc bộ quân phục Thế chiến II và bước lên máy bay C-47 Dakota, tôi bắt đầu hình dung những người lính ngày đó đã trải qua những gì, khi họ chuẩn bị nhảy xuống vùng đất xa lạ. Phần lớn những người tham gia nhảy dù trong tuần này là cựu chiến binh quân đội Mỹ, trong đó có nhiều lính dù hiện tại thuộc Sư đoàn Không vận 82 và 101. Hơn 13.000 lính dù đã dẫn đầu cuộc tấn công D-Day, được vận chuyển từ căn cứ ở Anh đến Normandy trên hơn 800 chiếc C-47. Đối với nhiều người, ngày mà sau này được gọi là “Ngày dài nhất” thực sự là ngày ngắn nhất. Hơn 9.000 binh sĩ Mỹ đã thiệt mạng. Tôi rùng mình khi tưởng tượng những người lính trẻ đó leo lên chiếc máy bay này vào ngày D-Day, không biết điều gì đang chờ đợi mình, nhưng biết rằng họ sẽ phải đối mặt với cuộc chiến sinh tử. Khi chúng tôi bay qua eo biển Manche đến bờ biển Pháp, ngoài tiếng gầm rú của động cơ Dakota, bạn có thể nghe thấy tiếng kim rơi. Và rồi, đến lúc bắt đầu. Tôi được lệnh “nhảy mạnh” ra khỏi cửa, vì luồng gió dọc theo thân máy bay Dakota có thể làm cho dù bị xoắn. Máy bay của chúng tôi dẫn đầu đội hình bay qua bầu trời Carenten, trung tâm của các khu vực thả quân D-Day năm 1944. Những người lính dù cách đây 80 năm không có thời gian để suy nghĩ sau khi họ tiếp đất, họ ngay lập tức bắt tay vào việc bảo vệ các cây cầu và con đường chiến lược, tạo dựng một điểm tựa quan trọng cho quân Đồng minh ở nước Pháp bị chiếm đóng. Phải mất ba ngày chiến đấu ác liệt để quân Đồng minh giành lại quyền kiểm soát lãnh thổ, một phần là do rất nhiều quân lính đã hạ cánh ngoài mục tiêu. Nghĩa trang và Tưởng niệm Mỹ ở Normandy, trên một vách đá nhìn ra bờ biển ở Colleville-sur-Mer, là nơi an nghỉ của 9.388 người lính đã hy sinh, phần lớn là những người đã chết trong cuộc đổ bộ D-Day và các chiến dịch tiếp theo.
Nguồn: https://cbsnews.com
Xem bài viết gốc tại đây
Bạn cần Đăng nhập/Đăng ký để bình luận.